BÀI TUYÊN TRUYỀN LUẬT TỐ CÁO.

Đăng lúc: 23:06:20 07/10/2023 (GMT+7)

BÀI TUYÊN TRUYỀN LUẬT TỐ CÁO.

 

BÀI TUYÊN TRUYỀN LUẬT TỐ CÁO

  Bài tuyên truyền Luật tố cáo.

                 Ngày 11-11-2011, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật Tố cáo. Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo. Hai Luật này chính thức có hiệu lực từ ngày 01-7-2012. So với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại tố cáo năm 2004 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại tố cáo năm 2005, Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo có những điểm mới cơ bản sau đây:

          1. Những điểm mới của Luật Khiếu nại.

          - Về khái niệm Quyết định hành chính, theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo thì quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Do giải thích thuật ngữ quyết định hành chính như trên nên dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng quyết định hành chính phải là văn bản thể hiện dưới hình thức Quyết định; các loại văn bản thể hiện dưới hình thức khác như kết luận, thông báo, công văn…thì không được coi là quyết định hành chính và không thuộc đối tượng được khiếu nại. Ý kiến khác lại cho rằng quyết định hành chính bao gồm cả văn bản thể hiện dưới hình thức Quyết định và văn bản thể hiện dưới hình thức khác do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành… Do cách hiểu khác nhau như vậy nên đã có sự không thống nhất trong thi hành.Để khắc phục tồn tại này, cũng là phù hợp với Luật Tố tụng hành chính, Luật Khiếu nại đã quy định rất cụ thể về quyết định hành chính là đối tượng khiếu nại: “Quyết định hành chính  là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể ”.

          - Về trình tự khiếu nại, Luật Khiếu nại, tố cáo quy định: khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì trong mọi trường hợp, người khiếu nại phải khiếu nại lần đầu với người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi hành chính. Quy định này đã hạn chế quyền được khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án của công dân.Để khắc phục hạn chế trên, theo quy định của Luật Khiếu nại thì khiếu nại lần đầu, người khiếu nại có quyền khiếu nại trực tiếp đến người có quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án, không nhất thiết phải khiếu nại với người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại như trước đây. Việc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án vẫn có thể thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết khiếu nại.

          - Về quyền khởi kiện vụ án hành chính, trên cơ sở quy định mới của Luật Tố Tụng hành chính về quyền khởi kiện vụ án hành chính, để bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật, Luật Khiếu nại quy định về quyền khởi kiện vụ án hành chính. Đây chính là quy định mới của Luật Khiếu nại theo quy định mới của Luật Tố tụng hành chính. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nếu không đồng ý với quyết định hành chính, hành vi hành chính thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính ra Toà án, không đặt ra điều kiện phải khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu rồi mới có quyền khởi kiện ra Toà án như quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức lựa chọn việc khiếu nại tại cơ quan hành chính thì khi hết thời hạn giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại lần đầu (hoặc lần hai) thì họ vẫn có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án. Đối với công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị kỷ luật buộc thôi việc mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc hết thời hạn giải quyết theo Luật quy định mà không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo Luật Tố tụng hành chính.

          2. Những điểm mới của Luật Tố cáo

           - Về  phạm vi điều chỉnh: Trên thực tế, các hành vi vi phạm pháp luật diễn ra rất đa dạng và phức tạp, nó có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể, với tính chất, mức độ vi phạm khác nhau, xâm phạm đến những quan hệ xã hội khác nhau được pháp luật bảo vệ. Về nguyên tắc thì các hành vi vi phạm pháp luật phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh; Nhà nước phải có cơ chế để khuyến khích, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để người dân phát hiện, tố cáo, phản ánh với các cơ quan nhà nước về hành vi vi phạm pháp luật. Thời gian qua, trên cơ sở quy định của Hiếp pháp, Nhà nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và đã được sửa đổi bổ sung hai lần vào năm 2004, 2005, đồng thời có nhiều quy định để điều chỉnh về tố cáo và giải quyết tố cáo trong các lĩnh vực, tạo thành hệ thống pháp luật đồng bộ điều chỉnh về vấn đề này. Tuy nhiên với tư cách là đạo luật gốc điều chỉnh những vấn đề cơ bản, chung nhất về tố cáo và giải quyết tố cáo thì nội dung của Luật Khiếu nại, tố cáo chưa bao quát, chưa đáp ứng được yêu cầu của việc giải quyết những tố cáo đang phát sinh trên thực tiễn. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đặt ra, khắc phục tình trạng bất cập hiện nay, trong quá trình xây dựng Luật Tố cáo thì việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật là vấn đề hết sức quan trọng cần phải được làm rõ. Quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 cho thấy giữa phạm vi điều chỉnh và thẩm quyền, trình tự giải quyết tố cáo chưa có sự thống nhất. Tại khoản 2 Điều 1 thì công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời, tại Chương I – Những quy định chung và Chương VII – Giám sát công tác giải quyết tố cáo, Chương VI – Quản lý về công tác giải quyết tố cáo thì cho thấy phạm vi điều chỉnh là việc tố cáo và giải quyết tố cáo trong tất cả các lĩnh vực. Trái lại, các quy định về thẩm quyền và thủ tục giải quyết lại chỉ tập trung vào việc giải quyết tố cáo đối với cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính. Sự không nhất quán, thiếu thống nhất trong cách quy định đó đã gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức, thực hiên. Đề khắc phục tình trạng này, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, căn cứ vào những quy định của các văn bản pháp luật có liên quan. Luật Tố cáo mở rộng phạm vi điều chỉnh, nhằm bao quát hết việc tố cáo và giải quyết tố cáo đang diễn ra, trên cơ sở phân định rõ hành vi vi phạm pháp luật và đối tượng có hành vi bị tố cáo để xác định quy trình giải quyết cho phù hợp. Theo đó có: (1) Tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ; (2) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Bên cạnh đó, Luật Tố cáo bổ sung nhiều quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo; công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý người có hành vi vi phạm bị tố cáo; bảo vệ người tố cáo… Những quy định mới đó nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong việc tố cáo, giải quyết tố cáo, đề cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo.

          - Về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo: Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Luật Tố cáo  đã quy định đầy đủ, chi tiết, chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo. Đối với người tố cáo, so với quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 thì Luật tố cáo đã bổ sung thêm một số quyền cho người tố cáo như: được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của mình; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết; tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết; được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Luật tố cáo đã bổ sung người tố cáo có thêm các nghĩa vụ: cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được; bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra. Đối với người bị tố cáo, Luật tố cáo đã bổ sung có thêm một số quyền: nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo;  yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý giải quyết tố trái pháp luật; được xin lỗi, cải chính công khai do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra; được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc giải quyết tố cáo không đúng gây ra.

          - Bên cạnh đó, Luật Tố cáo  đã có quy định mới về quyền, nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo, cụ thể là người giải quyết tố cáo có các quyền: Yêu cầu người tố cáo cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; yêu cầu người bị tố cáo giải trình bằng văn bản về hành vị bị tố cáo; yêu cầu cơ quan tổ chức cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ đề giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để ngăn chặn, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật; kết luận về nội dung tố cáo; quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Tương ứng với các quyền trên thì người giải quyết tố cáo cũng phải có các quyền nghĩa vụ: bảo đảm khách quan, trung thực, đúng pháp luật trong việc giải quyết tố cáo; áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp để bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo, người cung cấp thông tin có liên quan đến việc tố cáo; không tiết lộ thông tin gây bất lợi cho người bị tố cáo khi chưa có kết luận về nội dung tố cáo; chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết tố cáo; bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi giải quyết tố cáo trái pháp luật của mình gây ra.

          - Bổ sung về quy định một cách đầy đủ về thẩm quyền giải quyết tố cáo: Đề phù hợp với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật tố cáo thẩm quyền giải quyết tố cáo đã được quy định một cách đầy đủ hơn, tương ứng với việc giải quyết đối với hai loại hành vi vi phạm pháp luật nêu trên. Đó là thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ công vụ và thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Đối với loại thứ nhất, hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vu, công vụ, Luật Tố cáo đã quy định củ thể thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan khác của nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, Luật tố cáo cũng đã có quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của những người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức. Còn đối với loại thứ hai, hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực, Luật tố cáo quy định về nguyên tắc, xác định thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết.

          - Quy định cụ thể trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với nhóm hành vi vi phạm: Trên cơ sở kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, Luật Tố cáo đã quy định đầy đủ, cụ thể, chi tiết hơn về trình tự thủ tục giải quyết phù hợp với tính chất, đặc điểm và yêu cầu của việc giải quyết đối với từng loại tố cáo như: Hình thức tố cáo, xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội dung; về tiếp nhận xử lý thông tin tố cáo; xác minh nội dung tố cáo; kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo; gửi kết luận nội dung tố cáo; việc tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp; việc công khai kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý hành vị vi phạm bị tố cáo.

          - Xây dựng cơ chế hữu hiệu bảo vệ người tố cáo: Luật Tố cáo đã bổ sung một số chương mới quy định về bảo vệ người tố cáo, trong đó quy định cụ thể về phạm vi, đối tượng và thời hạn bảo vệ; quyền và nghĩa vụ của người tố cáo được bảo vệ; bảo vệ bí mật thông tin về người bị tố cáo; bảo vệ người tố cáo tại nơi công tác, làm việc; bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo.

          - Một số điểm mới khác: Ngoài những nội dung nêu trên, Luật Tố cáo còn bổ sung một số nội dung khác như:

          + Nguyên tắc giải quyết tố cáo: Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người người bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo. Nội dung này cũng được củ thể hóa bằng các quy định tại khoản 1 Điều 10 về quyền của người bị tố cáo và tại điểm c khoản 2 Điều 11 về nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo( không tiết lộ thông tin gây bất lợi cho người bị tố cáo khi chưa có kết luận về nội dung tố cáo).

           + Những hành vị bị nghiêm cấm: Đã quy định cụ thể và chi tiết hơn về các hành vị bị nghiêm cấm như nghiêm cấm hành vị lợi dụng việc tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích Nhà nước…( Điều 8)

          +  Quy định rõ hơn về Trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm bố trí trụ sở tiếp công dân hoặc địa điểm tiếp công dân để tiếp nhận tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, phản ánh. Việc tổ chức tiếp công dân tai trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại  và các quy định khác của pháp luật liên quan.

          + Xác định rõ trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết tố cáo như: Trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu; phối hợp xử lý đơn thư, giải quyết, quản lý nhà nước về công tác giải quyết tố cáo./.

                                                                                                                           Nguyễn Yến -VPTK

0 Bình luận
Ý kiến bạn đọc
Kết quả giải quyết TTHC
Truy cập
Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
234446